Truyền thống dòng họ Lê

 

Con người có tổ có tông, Như cây có cội, như sông có nguồn

Dòng họ Lê có nhân số đông thứ nhì trong tổng nhân số Việt Nam. Họ Lê chỉ đặc biệt có ở người Việt nước ta mà thôi. Trong lịch sử Trung Quốc rất hiếm có người họ Lê, hơn một ngàn năm Bắc Thuộc không có một viên quan cai trị nào mang họ Lê. Bởi vậy nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: Họ Lê là một trong những họ đặc trưng của dân tộc Lạc Việt đã định cư ở đất Thanh Hoá - Ninh Bình từ rất lâu đời đến nay.

Ngày nay họ Lê có thể chiếm đến 15% dân số nước ta, là một dòng họ đã có đến hai lần lập ra triều đại Vương quyền: Tiền Lê và Hậu Lê, tổng cộng 399 năm. Trong danh sách khoa bảng triều Nguyễn trong 115 năm có đến 650 vị Hương Cống, Cử Nhân, Tiến Sĩ, Phó Bảng là con cháu họ Lê trong 5.230 vị đăng khoa.
 
Nghiên cứu về dòng họ Lê vô cùng thú vị, vì có nhiều Danh nhân lịch sử, văn hóa nước ta mang dòng họ này. Đặt biệt những vị Thủy Tổ của nhiều chi phái họ Lê ở nước ta đều xuất xứ trên đất Đại Việt, không hề có ai gốc tích từ Trung Quốc sang mang dòng họ Lê.
(Trích tham luận của Nhà Biên khảo Vũ Hiệp, bản tin No: 01 ngày 26 Jun 1999 Trung tâm UNESCO Phát triển Nhân Văn TP. Hồ Chí Minh)

1. AN DƯƠNG VƯƠNG THỤC PHÁN LÀ ÔNG TỔ HỌ LÊ

Theo sách Lễ hội và Danh nhân Lịch sử Việt Nam của tác giả Hà Tùng Tiến (nhà xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội 1997) thì Thục Phán An Dương Vương là người dòng họ Lê ở Mỹ Đức, con cháu dòng Lê đại tộc bắt nguồn từ đây, trải qua 2.230 năm hình thành và phát triển đất nước, từ năm 258 BC đến nay dòng họ Lê đã cống hiến không biết bao nhiêu xương máu cho Tổ quốc, nổi bật là hai Triều đại Tiền Lê và Hậu Lê. Đó là niềm tự hào cho tất cả những ai được mang dòng máu họ Lê, để nhớ mãi: Cội nguồn của chúng ta THỤC PHÁN AN DƯƠNG VƯƠNG là ông Tổ của dòng LÊ ĐẠI TỘC.
………
Sau khi thống nhất đất nước, năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng sai Hiệu úy Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo tiến đánh Bách Việt. Để cuộc hành quân nhanh chóng, nhà Tần cử tướng Sử Lộc phụ trách việc xây dựng, sửa chữa đường, vận chuyển lương thực.
Đến năm 215 TCN, quân Tần tiến vào lưu vực Tây Giang là địa bàn người Tây Âu, giết chết một tù trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống, sau đó vượt biên giới tràn vào lãnh thổ phía Bắc và Đông bắc nước ta. 
 
Lúc này, ở nước ta hai tộc người Lạc Việt và Âu Việt vốn gần gũi về dòng máu, về địa vực cư trú, về kinh tế và văn hóa đã đoàn kết chặt chẽ với nhau hơn trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung.
 
Theo sách Hoài Nam Tử, “lúc đó người Việt đều vào rừng ở với cầm thú, không ai chịu để quân Tần bắt”, và “họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần”. Thông qua lối đánh này mà lực lượng kháng chiến của người Việt ngày càng lớn mạnh; còn quân Tần dần dần bị dồn vào thế nguy khốn và tuyệt vọng. 
 
Trên đà chiến thắng, người Việt tập hợp lực lượng tổ chức đánh lớn nhằm tiêu diệt sinh lực địch, đại phá quân Tần, giết chết chủ tướng Đồ Thư, buộc nhà Tần phải bãi binh. Đây là thắng lợi oanh liệt đầu tiên của cả dân tộc ta chống lại họa xâm lược của phong kiến phương Bắc.
 
Trong cuộc chiến đấu này, vai trò và uy tín của Thục Phán, người thủ lĩnh kiệt xuất của liên minh bộ lạc Tây Âu ngày càng được nâng cao, không chỉ ở trong bộ lạc Tây Âu mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trong bộ lạc Lạc Việt. Lúc đó vua Hùng lại không có con trai nên nhường ngôi cho Thục Phán.
 
Để ghi ơn, Thục Phán cho dựng cột đá thề hứa với trời đất với Vua Hùng đời đời gìn giữ tôn miếu thờ cúng dòng dõi nhà Hùng. Thục Phán cũng cho xây dựng ở động Lăng Sương - huyện Thanh Thuỷ ngôi miếu thờ bà Đinh Thị Đen, thân mẫu thánh Tản Viên là con rể, tướng tài của Vua Hùng, người đã khuyên can vua nhường ngôi cho Thục Phán để chấm dứt phân tranh.
 
Năm 208 TCN, Thục Phán lên ngôi vua tự xưng là An Dương Vương, hợp nhất Âu Việt và Lạc Việt thành nước Âu Lạc, dời đô từ Phong Châu về Đông Kinh và hạ lệnh xây thành Cổ Loa để bảo vệ kinh đô.
 
30 năm sau, Triệu Đà dùng con trai là Trọng Thủy ở rể làm nội gián đánh úp chiếm được thành Cổ Loa.
An Dương Vương đem tàn quân và con gái là Mị Châu chạy về đến Diễn Châu (Nghệ An) thì mất. Dân trong vùng thương tiếc lập đền thờ.
 

2. LÊ ĐẠI HÀNH

Vua Lê Đại Hành tên thật là Lê Hoàn. Ông là vị vua lập nên nhà Tiền Lê và trị nước được 24 năm.
Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm 941. Lớn lên, ông theo giúp Nam Việt Vương Đinh Liễn (con trai cả của Đinh Tiên Hoàng). Sau khi Vua Đinh Tiên Hoàng lên ngôi, Lê Hoàn được phong chức thập đạo tướng quân. Năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng cùng người con Đinh Liễn bị một viên quan trong triều tên Đỗ Thích giết chết. Sau đó, người con thứ tên Đinh Toàn, khi ấy mới 6 tuổi, lên nối ngôi và Lê Hoàn làm nhiếp chính giúp vua cai quản việc triều chính.
 
Thấy nước Đại Cồ Việt có nội biến và vua còn nhỏ, nhà Tống ở phương Bắc thừa cơ phát binh xâm lược. Trước tình thế đó, Thái hậu Dương Vân Nga trao ngôi vua lại cho Lê Hoàn để đối phó với quân Tống. Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế năm 980, lấy niên hiệu là Lê Đại Hành. Nhà vua vẫn lấy tên nước là Đại Cồ Việt và đóng đô tại Hoa Lư.
 
Cuối năm 980, Nhà Tống khởi binh sang đánh nước ta. Quân Đại Cồ Việt chống đỡ không nổi đành phải rút lui. Tuy nhiên, sang năm 981, Lê Hoàn phản công lại đánh thắng nhiều trận, giết chết và bắt sống nhiều tướng giặc. Cuối cùng quân Tống bị thua phải rút về nước.
Chiến tranh với phương Bắc vừa xong thì quân Chiêm Thành ở phía Nam kéo quân sang quấy phá nước ta. Năm 982, Vua Lê Đại Hành sai đóng chiến thuyền, đúc binh khí, tự thân thống lĩnh quân sĩ chinh phạt Chiêm Thành. Chiêm Thành thua trận. Quân Lê Đại Hành tịch thu nhiều của cải và phá hủy nhiều thành trì, tông miếu trước khi rút quân về nước. Những năm sau cho đến năm 995 và 997, quân Chiêm vẫn thường kéo sang đánh phá Đại Cồ Việt, và Lê Hoàn phải cho quân đánh đuổi.
 
Về công việc triều chính, Lê Hoàn lập ra nhà Tiền Lê, chia nước ra thành phủ, lộ, châu và đóng đô ở Hoa Lư. Ông phong chức cho các cận thần và con cái cai quản các vùng. Ngoài ra, Vua còn đem quân chinh phạt những lãnh chúa địa phương chưa chịu quy thuận triều đình hay nổi lên làm loạn.
Lê Đại Hành qua đời vào tháng 3, năm 1005. Nhà Vua đã đem lại sự thống nhất cho Đại Cồ Việt qua việc phá Tống bình Chiêm và dẹp loạn ở các địa phương. Ông là vị vua có công xây dựng đất nước thành cơ cấu của một quốc gia sau một ngàn năm bị phương Bắc đô hộ và đặt nền tảng cho một thời kỳ tự chủ lâu dài.

3. LÊ THÁI TỔ

Thái Tổ, Cao Hoàng Đế Lê Lợi là hậu duệ của vua Lê Đại Hành, sinh vào giờ tý ngày mồng 6 tháng 8 năm Ất Sửu (10-9-1385) tại Lam Sơn (Kẻ Cham), nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một phương". 

Ông là con út của Lê Khoáng và Trịnh Thị Ngọc Hương (anh lớn của ông tên Học, anh thứ là Trư). Ông nối nghiệp cha làm chúa trại Lam Sơn. 
Khi quân Minh chiếm đất nước, ông nuôi chí lớn đánh đuổi xâm lăng. Quân nhà Minh nghe tiếng ông, dụ cho làm quan, ông không chịu khuất. Ông nói: "Làm trai nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người?". Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.
Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.
 
Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham... Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.
 
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi (tháng 12-1427), qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng. Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. 
 
Nhưng Lê Lợi không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc, mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo to lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quý giá.
Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.
 
Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất (1433), an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.
 
Đại Việt sử ký toàn thư viết về những công lao to lớn của Lê Lợi: "Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học, có thể gọi là có mưu lớn, sáng nghiệp."

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

CLB Doanh nghiệp, Doanh nhân họ Lê Tp.Vinh

HỘI ĐỒNG HỌ LÊ TỈNH NGHỆ AN